Định nghĩa:
Bệnh
đái tháo đường (ĐTĐ) là một nhóm bệnh chuyển hoá đặc trưng bởi tình
trạng tăng đường huyết do hậu quả của thiếu insulin tương đối hoặc tuyệt
đối. Tình trạng tăng đường huyết lâu dài sẽ gây ra nhiều rối loạn chức
năng ở các cơ quan, đặc biệt là các mạch máu lớn và mạch máu nhỏ.
Bệnh
ĐTĐ được mô tả từ thời Cổ đại Ai Cập, cách đây hơn 3500 năm. Trong
nhiều thập kỷ qua bệnh ĐTĐ được chẩn đoán dựa trên mức đường huyết đói
hoặc đường huyết 2 giờ sau uống 75g glucoz.
1. Tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường năm 1979
Năm 1979 Ủy Ban Quốc Gia về bệnh ĐTĐ (NDDG: National Diabetes Data Group) đã đưa ra tiêu chí chẩn đoán bệnh và đã được áp dụng trên toàn thế giới. Bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ khi:
· Đường
huyết tương lúc đói ≥ 140 mg/dl (7,8mmol/l) ít nhất 2 lần thử ở 2 thời
điểm khác nhau, mẫu đường huyết được lấy sau một đêm nhịn đói, hoặc
· Đường huyết tương bất kỳ ≥ 200mg/dl (11,1 mmol/l) và có triệu chứng tăng đường huyết, hoặc
· Đường
huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucoz ≥ 200mg/dl (nghiệm pháp này được
thực hiện khi nghi ngờ có ĐTĐ nhưng đường huyết đói < 140 mg/dl,
nhất là trên bệnh nhân nam bị bất lực hoặc ở bệnh nhân nữ có tiền căn
sinh con to > 4kg hoặc bị nhiễm nấm âm đạo liên tục).
2. Tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường năm 1998
Tháng 6 năm 1997, Uỷ Ban các chuyên gia về chẩn đoán và phân loại bệnh ĐTĐ (The Expert Committee on Diagnosis and Classification of Diabetes Mellitus)
đã công bố tiêu chí chẩn đoán và phân loại mới của bệnh ĐTĐ tại hội
nghị thường niên của Hội đái tháo đường Mỹ (ADA) ở Boston. Tiêu chí này
được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công nhận năm 1998 và sau đó được áp
dụng trên toàn thế giới, bao gồm:
· Đường huyết tương lúc đói ≥ 126mg/dl (7mmol/L) sau một đêm nhịn đói hoặc ít nhất sau 8 giờ không ăn (≥ 2 lần thử), hoặc
· Đường huyết tương bất kỳ ≥ 200mg/dl (11,1mmol/L) + triệu chứng tăng đường huyết, hoặc
· Đường huyết tương 2 giờ sau uống 75g Glucose ≥ 200mg/dl (≥ 2 lần thử)
· Rối loạn đường huyết đói: 110 - 125 mg/dl ( 6 - 6,9 mmol/L)
· Rối loạn dung nạp glucoz: 140 - 199mg/dl ( 7,8 - 11mmol/L)
Nếu
không có triệu chứng tăng đường huyết hoặc mất bù chuyển hoá cấp tính
thì phải lập lại xét nghiệm một lần nữa vào một ngày khác để xác định
chẩn đoán, tuy nhiên nghiệm pháp dung nạp glucoz không được chỉ định
thường qui trên lâm sàng.
Như vậy vào năm 1998 ta có các giá trị bình thường như sau:
· Đường huyết tương lúc đói < 110 mg/dl (< 6 mmol/L) là đường huyết đói bình thường.
· Đường huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucoz < 140mg/dl (< 7,8mmol/L) là dung nạp glucoz bình thường.
Vì sao lại hạ thấp tiêu chí chẩn đoán bệnh đái tháo đường?
Dựa
trên ngưỡng đường huyết mà từ đó xuất hiện biến chứng mạch máu nhỏ, nên
WHO đã đưa ra tiêu chí chẩn đoán cũ là đường huyết tương lúc đói ≥140
mg/dl, đường huyết 2 giờ sau uống 75g glucoz ≥ 200mg/dL hoặc cả hai.
Tuy
nhiên, nếu đối chiếu 2 tiêu chí thì không thấy có mức tương đồng giữa
trị số đường huyết lúc đói và đường huyết 2 giờ sau khi uống 75g
glucoz. Nhiều nghiên cứu cho thấy hầu hết các bệnh nhân có đường huyết
tương lúc đói ≥ 140mg/dL đều có mức đường huyết tương 2 giờ sau uống 75g
glucoz ≥ 200mg/dL, trong khi đó có khoảng 33% bệnh nhân có đường huyết
tương 2 giờ sau uống 75g glucoz ≥ 200mg/dL lại không được chẩn đoán bệnh
ĐTĐ vì trước đó có mức đường huyết tương lúc đói ≤ 140 mg/dl.
Tuy
nhiên, trên lâm sàng nghiệm pháp dung nạp glucoz ít được thực hiện
thường qui vì mất thời gian và tốn kém, do đó nếu dựa theo tiêu chí cũ
để chẩn đoán ĐTĐ với mức đường huyết tương lúc đói ≥ 140 mg/dl thì sẽ bỏ
sót một số lớn bệnh ĐTĐ. Như vậy tiêu chí mới sẽ tránh được sự bất
tương xứng giữa đường huyết tương lúc đói và đường huyết tương 2 giờ sau
uống 75g glucoz.
Tại sao lại lấy ngưỡng đường huyết 2 giờ sau uống 75g glucoz ≥ 200mg/dL và mức đường huyết đói ≥ 126 mg/dL là có bệnh ĐTĐ?
Nhiều
nghiên cứu đoàn hệ khi so sánh mức đường huyết 2 giờ sau uống 75g
glucoz với mức đường huyết đói và khi theo dõi sự thay đổi của đáy mắt
với mức đường huyết cho thấy tỉ lệ mắc bệnh võng mạc tăng lên rõ rệt với
mức đường huyết đói nằm trong khoảng 120 - 130mg/dL trở lên, đường
huyết 2 giờ sau uống 75g glucoz từ 190 - 200mg/dL trở lên và HbA1c >
6.2 %.
Tuy
nhiên các nghiên cứu lại không cho thấy có mối liên hệ rõ rệt giữa mức
đường huyết và biến chứng mạch máu lớn cũng như biến chứng mạch máu nhỏ.
Trong nghiên cứu tiền cứu Paris
cho thấy tỉ lệ mới mắc bệnh mạch vành gây tử vong có mức đường huyết
đói ≥ 125mg/dL và đường huyết 2 giờ sau uống 75g glucoz ≥ 140mg/dL.
Việc
áp dụng tiêu chí chẩn đoán mới cho phép chẩn đoán bệnh ĐTĐ bằng đường
huyết đói, mức đường huyết này tương ứng với mức đường huyết 2 giờ sau
uống 75g glucoz trong đa số các trường hợp, xét nghiệm này lại đơn giản
dễ thực hiện và có tính ổn định do đó không cần phải dùng nghiệm pháp
dung nạp glucoz để chẩn đoán bệnh sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền
bạc. Và việc áp dụng tiêu chí chẩn đoán mới sẽ tránh bỏ sót các trường
hợp ĐTĐ không được chẩn đoán. Việc phát hiện bệnh sớm sẽ cho phép áp
dụng các biện pháp điều trị sớm, phòng ngừa được các biến chứng. Cho đến
thời điểm này HbA1c vẫn không được dùng để chẩn đoán bệnh ĐTĐ, mà chỉ
dùng trong việc theo dõi kiểm soát đường huyết của bệnh nhân.
3. Tiêu chí chẩn đoán rối loạn đường huyết đói 2033
Năm
1997 Ủy ban các chuyên gia về chẩn đoán và phân loại bệnh ĐTĐ đã đưa ra
định nghĩa về rối loạn đường huyêt đói: 110mg/dl - 125mg/dl (6mmol/l -
6,9mmol/l).
Năm 2003, ADA
đã hạ thấp tiêu chí chẩn đoán rối loạn đường huyết đói xuống từ
100mg/dl - 125mg/dl. Tuy nhiên tiêu chí này chưa được sự đồng thuận của
WHO và nhiều Hiệp hội đái tháo đường khác.
4. Tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường năm 2010
Tháng
1/2010, với sự đồng thuận của Ủy ban các chuyên gia Quốc tế, Hiệp hội
nghiên cứu ĐTĐ Châu Âu (EASD), Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế (IDF); Hiệp hội ĐTĐ
Mỹ (ADA) đã công bố tiêu chí chẩn đoán mới bệnh ĐTĐ, đưa HbA1c vào tiêu
chí chẩn đoán và lấy điểm cắt ≥ 6,5%. Trong đó xét nghiệm HbA1c phải
được thực hiện ở phòng xét nghiệm được chuẩn hoá theo chương trình chuẩn
hoá Glyco-hemoglobin Quốc Gia (National Glyco-hemoglobin Standardlization Program: NGSP). Tuy nhiên không dùng HbA1c để chẩn đoán bệnh ĐTĐ trong các trường hợp thiếu máu, bệnh Hemoglobin, những trường hợp này chẩn đoán ĐTĐ dựa vào đường huyết tương lúc đói, tiêu chí mới như sau:
· HbA1c ≥ 6,5%
· Đường huyết tương lúc đói ≥ 126 mg/dL (7.8 mmol/L) sau một đêm nhịn đói ít nhất sau 8 giờ (≥ 2 lần thử)
· Đường huyết tương bất kỳ ≥ 200mg/dL (11,1mmol/L) + triệu chứng tăng đường huyết.
· Đường huyết tương 2 giờ sau uống 75g Glucoz ≥ 200mg/dL (≥ 2 lần thử)
Các
xét nghiệm chẩn đoán ĐTĐ nên được lập lại để xác định chẩn đoán, trừ
trường hợp đã quá rõ như có triệu chứng tăng đường huyết kinh điển.
Thí dụ:
Nếu HbA1c lần thử đầu tiên là 7% và kết quả lập lại là 6,8% thì được chẩn đoán là ĐTĐ.
Nếu
chẩn đoán ĐTĐ dựa trên 2 xét nghiệm khác nhau có sẵn như đường huyết
đói và HbA1c, nếu thoả cả hai tiêu chí trên thì được chẩn đoán là ĐTĐ.
Nếu có một xét nghiệm không đủ tiêu chí chẩn đoán thì nên lập lại xét nghiệm có giá trị trên ngưỡng chẩn đoán.
Thí dụ:
Nếu
HbA1c ≥ 6,5% nhưng đường huyết đói < 126mg/dL thì lập lại HbA1c và
nếu HbA1c < 6,5% mà đường huyết đói >126mg/dL thì lập lại đường
huyết đói. Giá trị chẩn đoán sẽ dựa trên kết quả xét nghiệm được lập
lại.
Nếu HbA1c ≥ 6,5% (2 lần) nhưng đường huyết đói ≤ 126mg/dL hoặc ngược lại thì được xem như có ĐTĐ.
Trường hợp vẫn nghi ngờ có ĐTĐ nên lập lại xét nghiệm 3 - 6 tháng sau.
Trong
một ấn bản công bố vào đầu năm 2011, Tổ chức y tế thế giới đã chấp nhận
việc đưa HbA1c vào tiêu chí chẩn đoán ĐTĐ, lấy điểm cắt ≥ 6,5% và
phải được chuẩn hoá theo tiêu chuẩn NGSP như đã nói ở trên.
Như vậy theo ADA hiện nay ta có các giá trị bình thường như sau:
· Đường huyết tương lúc đói < 100 mg/dl (< 5,6 mmol/L) là đường huyết đói bình thường.
· Đường huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucoz < 140mg/dl ( < 7,8mmol/L) là dung nạp glucoz bình thường.
· HbA1c < 5,7%.
Vì sao đưa HbA1c vào tiêu chí chẩn đoán ĐTĐ và lấy điểm cắt ≥ 6,5%?
Trước đây, ADA
không đưa HbA1c vào tiêu chí chẩn đoán ĐTĐ vì chưa có sự chuẩn hoá ở
các phòng xét nghiệm. Tuy nhiên ngày nay HbA1c đã được chuẩn hoá cao ở
các phòng xét nghiệm. Trong báo cáo mới đây sau khi xem xét các bằng
chứng và sự thiết lập của các nghiên cứu dịch tể học cho thấy tỉ lệ
bệnh võng mạc gia tăng có liên hệ với HbA1c ở mức từ 6,2% - 6,5%. Ủy ban
các chuyên gia Quốc tế đã đưa HbA1c vào tiêu chí chẩn đoán ĐTĐ với điểm
cắt ≥ 6,5% và ADA
đã khẳng định lại quyết định này. Các nghiên cứu dịch tể cho thấy có
mối liên hệ giữa HbA1c và nguy cơ xuất hiện bệnh lý võng mạc tương tự
như mối liên hệ giữa mức đường huyết đói và đường huyết 2 giờ sau uống
75g Glucoz. Xét nghiệm HbA1c có nhiều tiện ích cho chẩn đoán vì không
cần phải nhịn đói mà có thể thực hiện bất cứ lúc nào, lại có tính ổn
định nhiều ngày mà không bị rối loạn trong giai đoạn có stress. Phân
tích dữ kiện các điều tra sức khoẻ và dinh dưỡng Quốc gia cho thấy có
khoảng dưới 1/3 bệnh nhân ĐTĐ không được chẩn đoán có điểm cắt HbA1c ≥
6,5% có mức đường huyết đói ≥ 126mg/dl.
Hiệp hội cũng đưa ra nhóm có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ:
· Rối loạn đường huyết đói: 100 - 125 mg/dl (5,6 - 6,9 mmol/l)
· Rối loạn dung nạp glucoz: 140 - 199mg/dl ( 7,8 - 11mmol/l)
· HbA1c: 5,7 - 6,4%
Nghiên
cứu điều tra sức khoẻ và dinh dưỡng Quốc gia cho thấy ở dân số không có
ĐTĐ có mức đường huyết đói 100mg/dl sẽ có mức HbA1c tương ứng vào
khoảng 5,4%. Ở đối tượng có HbA1c 6 - < 6,5% sẽ có một số lớn rơi
vào nhóm rối loạn đường huyết đói và hoặc rối loạn dung nạp glucoz. Các
nghiên cứu hồi cứu cũng cho thấy người có mức HbA1c từ 5,5 - 6% có nguy
cơ mắc bệnh ĐTĐ sau 5 năm từ 12 - 25%. Vì những lý do trên nên các đối
tượng có HbA1c từ 5,7% - 6,4% được xem như có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ.
5. Tiêu chí thử đường huyết ở các đối tượng không triệu chứng
Phát
hiện sớm bệnh ĐTĐ typ 2 có thể làm giảm gánh nặng của bệnh và các biến
chứng. Năm 1998, WHO đã đưa ra tiêu chí tầm soát bệnh ĐTĐ ở một số đối
tượng nguy cơ và năm 2010 ADA bổ sung thêm tiêu chí tầm soát ở đối tượng có HbA1c > 5,7%.
Các đối tượng cần tầm soát bệnh ĐTĐ bao gồm:
· Mọi đối tượng ≥ 45 tuổi, đặc biệt BMI ≥ 25kg/m2, lập lại mỗi 3 năm nếu tầm soát âm tính.
Các đối tượng sau được tầm soát ở tuổi trẻ hơn và lập lại gần hơn:
· Ít vận động.
· Gia đình có trực hệ gần bị đái tháo đường.
· Là thành viên của sắc dân có nguy cơ cao.
· Nữ sinh con > 4kg/ hoặc có đái tháo đường thai kỳ.
· Tăng HA ( HA ≥ 140/90 mmHg).
· HDL < 35mg/dl và hoặc Triglycerid > 250mg/dl.
· Lần thử trước có rối loạn đường huyết đói và hoặc có rối loạn dung nạp glucoz.
· HbA1c > 5,7%.
· Phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang.
· Gia đình có tiền sử bệnh mạch vành./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét